Tiểu sử Urabe Kumeko

Đầu đời

Kume Kimura (木村 くめ, ?) sinh ngày 5 tháng 10 năm 1902, là con gái của Kume Keichu, một thầy tu dòng thiền Lâm Tế tại đền Kenchō-ji, và Kume Hana. Bà là đứa con duy nhất lớn lên ở quận nông thôn Kamo, một anh chị em của bà và một người anh trai đã chết khi bà còn nhỏ. Năm 1909, gia đình bà chuyển đến Kawazu, Shizuoka và Kume học tiểu học tại đây. Năm 1915, cả gia đình lại chuyển đến Numazu, nơi cha bà làm việc tại chùa Myōshin-ji. Kume hoàn thành chương trình học phổ thông hai năm sau đó và theo học Trường Nữ sinh Numazu. Trong thời gian này, bà đã hình thành sở thích diễn xuất khi xem Rensageki, một hình thức nghệ thuật kết hợp giữa phim câm và kịch sân khấu. Năm 1919, bà rời trường học và tham gia đoàn kịch của Yasuyoshi Suzuki, lấy nghệ danh Ichijo Kumeko.[1]

Trong bốn năm tiếp theo, Kume đã gia nhập vào những nhà hát lưu động và các công ty opera, hoàn thiện thói quen ca hát và vũ đạo của mình, cũng như học cách diễn xuất trong nhiều vai diễn khác nhau. Bà đã sử dụng một số nghệ danh, bao gồm Midori Toyama, Shizuura Chidori và Toyama Chidori. Cũng trong thời gian này, bà gặp Chieko Saga; cặp đôi này được biết đến với cái tên "Sagachi" và "Tochi".[2]

Sự nghiệp điện ảnh

Urabe Kumeko trong bộ phim Gan (Ngỗng hoang dã) do Toyoda Shirō đạo diễn, năm 1953.

Vào tháng 8 năm 1923, Yasumasa Hatano đã đề nghị bà thử vai tại xưởng phim Nikkatsu. Urabe đã thành công trong buổi thử vai này và lấy nghệ danh Urabe Kumeko, sau này là cái tên gắn bó với sự nghiệp bà suốt cả cuộc đời. Thậm chí, nhiều thập kỷ sau về sau này, bà đã phản đối dùng tên khai sinh của mình trên Huân chương Danh dự với Ruy băng Tím, nói rằng giải thưởng phải dành cái tên Urabe Kumeko.[3] Bà xuất hiện trong bộ phim đầu tay của mình vào năm 1924, đóng vai nữ chính trong phim Kiyosaku no tsuma (Vợ của Seisaku). Bà được coi là một trong những diễn viên nữ đầu tiên của nền điện ảnh Nhật Bản.[4] Tài diễn xuất của bà đã thu hút được sự chú ý của đạo diễn Mizoguchi Kenji, sau đó ông chọn bà vào vai Suzuki Denmei trong bộ phim Chén jìng (Thế giới mơ hồ) phát hành cùng năm.[5]

Sau bộ phim này, Urabe đã trở thành một trong những thành viên nổi bật nhất của xưởng phim, sau Sakai Yoneko và Sawamura Haruko. Bà tiếp tục làm việc với Mizoguchi trong nhiều bộ phim của ông được phát hành trong bốn năm tiếp theo, bao gồm Koi o tatsu ono (Chiếc rìu cắt vào tình yêu), Kyokumadan no joō (Nữ hoàng rạp xiếc) và Musen fusen (Không tiền, không đánh nhau).[6][7] Bà đã phát triển một mối quan hệ thân thiết với vị đạo diễn, thậm chí ở bên cạnh ông khi ông bị Ichiro Yuriko tấn công.[8] Sau một thời gian ngắn nghỉ diễn từ năm 1928 đến năm 1930, bà đã xuất hiện trở lại trong bộ phim tiếp theo của Mizoguchi Tojin Okichi. Ông cũng mời bà tham gia các bộ phim khác trong thập kỷ tiếp theo, bao gồm Gion matsuri (Lễ hội Gion) và Taki no Shiraito (Nhà ảo thuật nước) vào năm 1933.[9] Cho đến thời điểm trên, bà hầu như chỉ đóng phim câm.[10] Vào tháng 7 năm 1933, Urabe đã rời xưởng phim để gia nhập Shinkō Kinema (sau này được chuyển tên thành Daiei Film vào năm 1942). Trong thời gian này, bà đã xuất hiện trong bộ phim có tiếng đầu tiên của mình.[11]

Urabe tiếp tục xuất hiện trong các bộ phim sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ phim năm 1947 Koisuru Tsuma là tác phẩm đầu tiên của bà với đạo diễn Hagiwara Ryo.[12] Năm 1952, bà đóng vai Tatsu, vợ của Kanji Watanabe trong bộ phim Ikiru của Kurosawa Akira.[13] Cùng năm, bà xuất hiện trong bộ phim Inazuma (Tia chớp) của Naruse Mikio. Sau đó, bà hợp tác với Naruse trong tác phẩm Ani imōto (Anh trai, em gái) phát hành vào năm sau và trở thành một trong những diễn viên cố định trong các tác phẩm của ông.[11][14] Bà cũng góp mặt vào bộ phim điện ảnh cuối cùng của Mizoguchi Akasen Chitai (Đường phố sỉ nhục), phát hành năm 1956.[15] Phim của bà đã tiếp cận ngày càng rộng với khán giả quốc tế. Ví dụ, vào năm 1955, bà đã xuất hiện trong Asunaro monogatari (Câu chuyện cây la hán) của Horikawa Hiromichi, được phát hành với phụ đề tiếng Anh là Tomorrow I'll be a Fire Tree.[16]

Trong suốt những năm 1960, Urabe vẫn tiếp tục vào vai trong nhiều phim, thường là vai một người bà, như trong bộ phim Natsukashiki fue ya taiko (Chiếc sáo và trống yêu kiều) của Kinoshita Keisuke, được phát hành bằng tiếng Anh vào năm 1967 dưới tên Eyes, the Sea and a Ball.[17] Sau đó, bà xuất hiện trong Kōkotsu no hito, bộ phim nói vấn đề mất trí nhớ ở người già và được phát hành với phụ đề tiếng Anh vào năm 1994 với tên gọi Twilight Years.[18]

Cho đến cuối sự nghiệp của mình, Urabe đã xuất hiện trong hơn 320 bộ phim và làm việc với các đạo diễn nổi tiếng nhất của điện ảnh Nhật Bản. Bà cũng nhận được nhiều giải thưởng danh giá, bao gồm Huân chương Danh dự với Ruy băng Tím năm 1966 và giải thưởng cá nhân tại Lễ trao giải Điện ảnh Yamaji Fumiko khai mạc năm 1977.[19][20]

Công việc khác

Ngoài tham gia vào các bộ phim điện ảnh, Urabe cũng xuất hiện trong trên những bộ phim truyền hình, với bộ phim đầu tiên bà tham gia là một số tập của Koko ni hito ari (Có người ở đây) được phát sóng vào năm 1957 và 1959.[21] Sau đó, bà tiếp tục đóng nhiều vai, trong đó ngày càng nhiều vai về người bà, như trong chương trình Shāpu kayōgekijō (Nhà hát thứ ba Sharp) và Tōshiba nichiyō gekijō (Nhà hát Chủ Nhật Toshiba). Bà cũng xuất hiện trong Nhà hát Chủ Nhật Toshiba tổng cộng mười ba tập trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1980, và tập cuối cùng của bà là tập thứ 1228 với tựa đề Sōshiju no uta (Khúc ca tâm tư).[22] Sau năm 1980, Urabe dần trở thành một Thần tượng bà ngoại.[19] Bà đã phát hành hai đĩa đơn vào tháng 11 năm 1984 lần lượt là Watashi kashu ni narimashita yo (Tôi trở thành một ca sĩ) và Tako no uta (Bài hát con bạch tuộc); vào thời điểm đó, bà được coi là ca sĩ debut già nhất trong lịch sử.[23] 

Cuộc sống riêng tư

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1928, Urabe đã kết hôn với Ueno Koichi, con trai của một người đàn ông giàu có ở Kyōto. Hai vợ chồng đã đánh bạc nặng nề, và cuộc hôn nhân này kết thúc bằng việc ly dị vào tháng 4 năm 1930.[11] Urabe không bao giờ đi thêm bước nữa kể từ đó. Trong thời gian rảnh, bà thích chơi mạt chược và đánh cược trong các cuộc đua xe đạp và đua thuyền. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1989, bếp lò trong căn hộ ở Tokyo của Urabe đã làm cháy quần áo của bà và khiến bà bị bỏng nặng. Bà sau đó được đưa đến Bệnh viện Đại học Y Tokyo ở Nishi-Shinjuku, nhưng đã qua đời vì vết thương của mình vào ngày hôm sau.[19]